Nội dung thư

Saturday, June 28, 2014

* Carl Thayer: Không Được Để Cho Trung Quốc Lợi Dụng Liên Hiệp Quốc!

on June 26, 2014 9:59 AM in Bình Luận - Thời Sự
Trong bài viết “China’s Information Warfare Campaign and the South China Sea: Bring it on!” (tạm dịch: Chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc và Biển Đông: Cứ thử xem!” của giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc trên tờ The Diplomat (Nhật), đã vạch trần mưu toan lợi dụng tổ chức này, cũng như mánh khóe tuyên truyền của Bắc Kinh, hòng bao biện cho hành vi ngang ngược đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Chúng tôi xin lược dịch toàn bộ nội dung bài viết trên của vị chuyên gia hàng đầu về Biển Đông này.
Trinh Huynh 6/19/2014
Cuộc đối đầu trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam xung quanh việc Bắc Kinh hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, bắt đầu từ đầu tháng 5/2014 và đã bước sang tuần thứ 7.
Ngày 9/6/2014, Trung Quốc bất ngờ mở một mặt trận mới, khi ông Vương Dân – Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc (LHQ), chuyển đến Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon một bản tuyên bố lập trường chính thức của Bắc Kinh về cuộc tranh chấp, với yêu cầu cho lưu hành văn bản đó tới toàn bộ 193 thành viên LHQ.
Hành động quốc tế hóa tranh chấp với Việt Nam của Trung Quốc không đại diện cho một sự thay đổi trong chính sách lâu dài của Bắc Kinh, mà theo đó, tranh chấp hàng hải chỉ có được giải quyết song phương, thông qua đàm phán và tham vấn trực tiếp của các bên liên quan trực tiếp. Một ngày sau khi Trung Quốc gửi văn kiện trên, bà Hoa Xuân Oánh – một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại tuyên bố rằng, Bắc Kinh bác bỏ đề nghị làm trọng tài của LHQ trong cuộc tranh chấp với Việt Nam.
Như vậy, tại sao Trung Quốc lại đưa tranh chấp với Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc?
Năm 2003, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Ủy ban Quân sự Trung ương Trung Quốc đã chính thức thông qua học thuyết “tam chủng chiến pháp” (3 phương thức chiến tranh). Học thuyết này là một trong những nhân tố thiết yếu của chiến tranh thông tin.
Theo công trình nghiên cứu “Ba phương thức chiến tranh của Trung Quốc” do Timothy A. Walton viết năm 2012 cho văn phòng tư vấn Delex Consulting, Studies and Analysis, “tam chủng chiến pháp” của Trung Quốc bao gồm 3 thành tố: chiến tranh tâm lý, chiến tranh thông tin – hay còn gọi là chiến tranh truyền thông và chiến tranh pháp lý. Chính hai thành tố sau cùng là cơ sở cho bản “tuyên bố lập trường” của Trung Quốc tại LHQ.
Theo Walton, chiến pháp thông tin là một chiến lược được thiết kế nhằm tác động lên dư luận quốc tế, tạo hậu thuẫn cho Trung Quốc và khiến đối thủ nản lòng trong việc theo đuổi các hành động trái với lợi ích của Trung Quốc.
Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc gửi đến LHQ hòng đánh bật các nỗ lực tuyên truyền của Việt Nam và để cô lập Việt Nam. Đại đa số các thành viên của LHQ không có lợi ích trực tiếp trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Nhiều nước Đông Nam Á vốn quan ngại về các hành động của Trung Quốc, sẽ né tránh khi buộc phải công khai lập trường về vấn đề này.
Chiến tranh pháp lý, theo Walton, là một chiến lược sử dụng pháp luật trong nước và quốc tế của Trung Quốc, để nâng cao nền tảng pháp lý trong việc Trung Quốc khẳng định quyền lợi của mình. Bản “tuyên bố lập trường” của Trung Quốc được trang bị đầy đủ các dẫn chứng trong luật pháp quốc tế được chọn lọc để hỗ trợ cho lập trường của Trung Quốc.
Nhưng những lập luận Bắc Kinh công khai trình bày để giải thích cho cái gọi là “lập trường” của mình trong vụ giàn khoan 981 rất thiếu nhất quán và tự mâu thuẫn.
Ban đầu, Trung Quốc bảo vệ việc hạ đặt giàn khoan 981 trong vùng biển Việt Nam bằng cách cho rằng nó nằm trong vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trung Quốc nhấn mạnh rằng, vị trí của giàn khoan Hải Dương 981 cách đảo Tri Tôn, đảo cực tây thuộc quần đảo Hoàng Sa (của Việt Nam – PV) 17 hải lý. Tuy nhiên, theo Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) 1982, vùng lãnh hải chỉ được mở rộng 12 hải lý, tính từ đường cơ sở ven biển của một quốc gia.
Đến ngày 6/6, Trung Quốc sửa lỗi lầm này bằng cách tuyên bố rằng, vị trí của giàn khoan Hải Dương 981 nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc. Cách nói mới đó, tuy nhiên, cũng thiếu cơ sở pháp lý.
Theo UNCLOS mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp lãnh hải là để cho phép một quốc gia ven biển để “thực hiện quyền kiểm soát cần thiết để: (a) ngăn chặn hành vi vi phạm luật lệ và quy định về hải quan, tài chính, xuất nhập cảnh hoặc y tế trên lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình; (b) trừng phạt hành vi vi phạm pháp luật và các quy định trên phạm vi lãnh thổ hoặc lãnh hải của minh”.
Trung Quốc cũng đã cố gắng tìm cách gây nhiễu tranh chấp với Việt nam bằng cách đưa ra lập luận rằng, vị trí của giàn khoan 981 gần với quần đảo Hoàng Sa (mà Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm đóng bất hợp pháp của Việt Nam từ năm 1974 – PV) hơn là bờ biển Việt Nam.
Bản “tuyên bố lập trường” của Trung Quốc lập luận rằng, Hải Dương 981 đang hoạt động ở nơi cách cả đảo Tri Tôn lẫn đường cơ sở xung quanh quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý, và cách bờ biển Việt Nam từ 133 – 156 hải lý.
Nhưng cùng lúc, Trung Quốc lại tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough – mà trên thực tế nằm gần Philippines hơn là vùng đất cực Nam của Trung Quốc. Theo luật pháp quốc tế, yếu tố “gần” đơn thuần không đủ để chứng minh chủ quyền.
Bản “tuyên bố lập trường” của Trung Quốc tại LHQ thực sự đang làm suy yếu việc sử dụng chiến tranh pháp lý để thúc đẩy các đòi hỏi chủ quyền. Chẳng hạn, tuyên bố của Trung Quốc viết:
“Các vùng biển giữa quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) của Trung Quốc và bờ biển đất liền Việt Nam vẫn chưa được phân định. Hai nước vẫn chưa tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng biển này. Cả hai bên đều có quyền khẳng định EEZ và thềm lục địa chiếu theo quy định của UNCLOS”.
Nếu đã dẫn ra như vậy thì Trung Quốc cũng nên theo các quy định của UNCLOS để xử lý các tuyên bố chồng lấn. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều nên có những dàn xếp tạm thời về các vùng tranh chấp cho đến khi đạt được các thỏa thuận phân định. Trong thời gian đó, mỗi bên nên tránh các hành động làm thay đổi hiện trạng và đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.
Rõ ràng là việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng biển tranh chấp đã vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế.
Tuyên bố lập trường của Trung Quốc cũng sẽ làm suy yếu tính hợp pháp của họ khi lập luận luật pháp quốc tế là không thích hợp trong vụ giàn khoan 981. Tuyên bố lập trường của Bắc Kinh viết:
“Tuy nhiên, vùng biển này sẽ không bao giờ trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cho dù có áp dụng bất kỳ nguyên tắc (của luật pháp quốc tế) nào trong việc phân định.”
Đại sứ Trung Quốc tại Úc, Mã Triều Húc (Ma Zhaozu), đã góp phần vào cuộc chiến tranh thông tin của Bắc Kinh, bằng cách lặp lại các lập luận tương tự trong một bài ý kiến (op-ed) trên báo The Australian của Úc ngày 13/6/2014. Ông Mã cho rằng, khu vực tranh chấp chưa bao giờ được phân định và “dù có áp dụng bất kỳ nguyên tắc nào (của luật pháp quốc tế), các vùng biển liên quan sẽ không bao giờ trở thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”.
Các thành viên của cộng đồng quốc tế đang lo ngại về căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và Việt Nam và tác động của vấn đề này đối với an ninh khu vực cần phải nắm lấy việc Trung Quốc chính thức đệ trình bản tuyên bố lập trường lên Tổng thư ký LHQ. Các nước nên vận động để vấn đề này được đưa lên Hội đồng Bảo an.
Không được để cho Trung Quốc theo đuổi cuộc chiến tranh thông tin với mục đích thu lợi cả hai đầu: Cho lưu hành một bản tuyên bố lập trường tại LHQ để chứng minh tính chất nghiêm túc của họ trong cuộc tranh chấp với Việt Nam, nhưng mặt khác lại từ chối đề nghị trọng tài phân xử của LHQ.
Mỹ và Úc nên thúc đẩy một cuộc tranh luận tại Hội đồng Bảo an LHQ. Nhật Bản và các cường quốc hàng hải khác có quyền lợi trong việc Biển Đông ổn định cũng nên nhập cuộc.
Trung Quốc phải bị đẩy vào một vị thế khó chịu khi phải phản đối bất kỳ một cuộc tranh luận nào tại Hội đồng Bảo an, qua đó từ bỏ mưu toan sử dụng LHQ cho mục đích tuyên truyền, hoặc phải phủ quyết mọi nghị quyết phát sinh từ một cuộc tranh luận trong Hội đồng Bảo an chỉ trích hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.